Địa vị Trịnh_Thân_vương

Trịnh vương phủ một chi bởi vì huyết thống sâu sắc, hệ thống gia phả cực kỳ khổng lồ, phân nhánh thuộc hàng đồ sộ nhất trong Hoàng phái. Từ con thứ A Mẫn của Thư Nhĩ Cáp Tề, phân ra ba nhánh nhà Trấn quốc công Cung A, Quả Cái, Quả Lại. Từ con trai thứ 3 Trát Tát Khắc Đồ xuống nhánh Phụ quốc công gia. Con thứ 4 Đồ Luân, từ Bối lặc truyền xuống, có nhánh nhà Trấn quốc công Đồn Tề. Con thứ 5 Trại Tang Vũ, truy phong Bối lặc, hậu duệ kế thừa xuống dần. Cả bốn chi trên đều là nhánh thứ tiểu tông, đại tông đương nhiên là nhánh của Tế Nhĩ Cáp Lãng. Ông ta có 10 con trai, trong đó 4 vị vô tự. Đại tông tính từ con thứ Tế Độ kế thừa, hiệu [Giản Thân vương; 簡親王], nhưng sau bị tội cách tước và hết hậu duệ, liền lấy hậu duệ phòng 4 là Ba Nhĩ Kham để kế thừa đại tông, tức Kỳ Thông A. Em trai thứ 8 của Tế Nhĩ Cáp Lãng là Phí Dương Vũ, nguyên là Bối lặc, nhưng trong năm Càn Long do có cháu Đức Phái nhập đại tông kế thừa, nên được truy thành Giản Thân vương. Từ Tích Cáp Nạp, thừa kế Trịnh vương phủ được đổi gọi [Trịnh] như cũ mà không phải [Giản].

Tuy có đến 2 lần đại biến, song địa vị của Trịnh vương phủ một chi trong Hoàng phái vẫn là cao quý, vẫn là Đại kỳ chủ của Tương Lam kỳ hiển hách. Thậm chí sau này con cháu Nỗ Nhĩ Cáp Xích, Đại Thiện ân phong Vương tước, nhưng vẫn không thể đụng đến kỳ quyền rất lớn của Trịnh vương phủ. Sau khi Đa Nhĩ Cổn bị hạch tội đoạt tước, Tế Nhĩ Cáp Lãng trở thành Thúc vương, có được sự tôn trọng cực kỳ lớn trong Hoàng thất. Về vấn đề thứ tự tông pháp, Trịnh vương phủ là hậu duệ Thanh Hiển Tổ Tháp Khắc Thế, thứ cao thượng, do đó chỉ xếp sau Lễ vương (nhánh Đại Thiện) và Duệ vương (nhánh Đa Nhĩ Cổn), đứng hàm thứ 3 trong chư Vương. Vì Tế Nhĩ Cáp Lãng giữ Tương Lam kỳ, sau khi phân phong đến hết đời Thanh, hậu duệ của ông đều là người Tương Lam kỳ.